Diễn biến cuộc tấn công Trận_Normandie

Quân đoàn 2 bộ binh Anh nằm chờ để vượt qua bãi biển 'Queen White' khu SWORDXe tăng Cromwell từ tàu chiến đổ bộ vào khu bờ biển Arromanches

Bình minh ngày 6 tháng 6 năm 1944, binh sĩ các nước Mỹ, Anh, Pháp, Canada, ScotlandBa Lan đồng loạt đổ bộ lên bãi biển ở Normandie, bắt đầu chiến dịch giải phóng Châu Âu khỏi Đức Quốc Xã. Quân Đồng Minh chọn Normandie nhằm tránh hệ thống phòng thủ quá kiên cố của Đức ở các cảng HavreCherbourg. Cuộc đổ bộ lên Normandie tương đối thuận lợi vì trước đó quân Đồng minh đã dùng kế lừa quân Đức tập trung quân lực ở Pas-de-Calais. Erwin Rommel đã nhận ra điều đó nhưng Hitler vẫn không tin Normandie sẽ là nơi quân Đồng Minh đổ bộ nên quân lực của Đức ở đây tương đối mỏng. Việc đổ bộ vào lúc bình minh cho phép quân Đồng Minh có thể nhận biết những vật cản mà quân Đức giăng sẵn: chĩa ba bằng gỗ cứng có chứa chất nổ, chĩa ba bằng bê-tông có khả năng chọc thủng thân các xà lan đổ bộ. Để vượt qua các chướng ngại vật ấy, quân Anh và Mỹ đã sử dụng những chiến xa A2VE và DD có tác dụng rà mìn, phá nổ các vật cản bằng bê tông, lấp các hào sâu chuẩn bị đường đổ quân cho các xà lan đang lao đến từ biển Manche. Theo kế hoạch Overlord thì trong ngày đầu tiên quân đồng minh phải chuyển được đến Normandie 50.000 quân với 15.000 chiến xa, 2500 xe quân sự dùng trong mọi địa hình, tiếp theo sẽ là 3000 khẩu pháo và 10.000 xe các loại. Đồng thời sau 2 ngày đổ bộ sẽ có 5 sư đoàn tác chiến và sau 10 ngày sẽ có 18 sư đoàn. Những đơn vị khác, tổng cộng là 39 sư đoàn với 2 triệu quân sẽ tiếp tục đổ bộ trong 2 tháng đầu của chiến dịch Overlord. Ở phía Tây, Sư đoàn Bộ binh số 4 của Mỹ cập vào bờ biển Utah, sau 2 tiếng họ đã liên lạc được với lính dù đổ bộ xuống làng St. Mère-Église. Ở bờ biển Omaha gần đó, thế trận căng thẳng hơn, bờ biển này thích hợp để phòng thủ, với vách đá cao, ít đường vào đất liền. Khi Sư đoàn Bộ binh số 1 của Mỹ tiến lên, súng máy của Đức đã bắn hạ họ, tình hình càng xấu đi khi xe tăng lội nước của Mỹ bị lún, đội quân mắc kẹt ở bờ biển, thảm kịch dần hiện ra. Nhưng cuối cùng, một vài quân lính đã trèo được lên vách đá, quân Mỹ cố thủ ở vị trí đổ bộ bất chấp mọi nguy hiểm. Ở mạn Đông, giữa khu vực đổ bộ, Sư đoàn Bộ binh số 50 của Anh đổ bộ ở bờ biển Gold, họ cũng vấp phải hỏa lực dữ dội, nhưng giờ quân Anh đã triển khai các cỗ máy ''Lũ Hề'', đội quân nhanh chóng tiến vào đất liền. Tại điểm đổ bộ kế bên trên bờ biển Juno, Sư đoàn Bộ binh số 3 của Canada cũng gặp tình huống tương tự, ở đây các cỗ máy ''Lũ Hề'' của Anh đã giúp đưa đội quân vào bờ. Cuối cùng, ở cánh trái trên bãi biển Sword, Sư đoàn Bộ binh 3 của Anh chỉ gặp sức kháng cự lẻ tẻ. Vài tiếng sau, lực lượng đổ bộ đã gặp đội lính dù ở kênh Caen. Đầu giờ chiều, quân Đồng Minh đã thiết lập thành công tất cả các vị trí đổ bộ

Nhiệm vụ của hải quân Đồng Minh

Xe tăng của quân đội Anh Quốc tại bãi biển Dieppe

Để vận chuyển quân và hỏa lực lên các bãi biển Normandie đòi hỏi sự đóng góp cực kì quan trọng của hải quân Đồng minh. 8 nhóm chiến đấu đầu tiên có trang bị chiến xađại bác được chở trên 4000 con tàu và xà lan đổ bộ và ra đi từ các cảng PlymouthNewhaven của Anh. 1 nửa số tàu này có khả năng tự động, số còn lại phải có trục kéo. Chiến dịch này có tên gọi là Neptune và có vai trò cực kì quan trọng trong chiến dịch Overlord. Điểm tập trung ngoài khơi được đặt tên là Picadilly Circus giống như tên 1 ngã tư lớn ở Luân Đôn và các tàu từ mọi cảng đều hội tụ về đây. Và từ 4 tuyến chính ấy, các xà lan sẽ tỏa ra 10 kênh và nhắm thẳng vào bờ. Một phần của hạm đội sẽ có nhiệm vụ cảnh giác sự tấn công của tàu chiến Đức. Bộ phận hỗ trợ trực tiếp được chia thành 2 nhóm: Lực lượng đặc nhiệm (Task Force) của đô đốc Kirk, hải quân Mỹ với 3 thiết giáp hạm, 10 tuần dương hạm, 35 khu trục hạm và nhiều tàu chiến cỡ nhỏ khác có trang bị đại bác và hỏa tiễn. Lực lượng hỗ trợ tác chiến thứ 2 thuộc quyền chỉ huy của đô đốc hoàng gia Anh Sir Phillip Vian với 3 thiết giáp hạm, 13 tuần dương hạm và 44 khu trục hạm.

Hải quân Đồng Minh còn có 1 nhiệm vụ quan trọng nữa là tiếp tế quân lực lẫn lương thực, xăng dầu, quân trang, quân dụng, vũ khí cho tất cả các đơn vị chiến đấu đặt chân lên đất Pháp. Nhiên liệu thì được chuyển riêng trong những ống dẫn khổng lồ dưới biển ngoài khơi đảo Wight và rẽ ra hai nhánh hướng về QuerquevillePort-en-Bessin (Pháp). Ống dẫn được đặt tên là Pluto, huyết mạch quan trọng nhất cho sự thành công của chiến dịch Overlord.

Không quân, lính dù tham gia trận chiến

Để đảm bảo làm chủ được bầu trời khu vực đổ bộ, 7500 phi cơ của tướng chỉ huy không quân Hoàng gia Anh Leigh Mallory đã được phái đến. Các sư đoàn 3 Anh, sư đoàn 3 Canada và sư đoàn 50 Anh trong bình minh ngày 6/6 phải đổ bộ lên 3 bãi Sword, JunoGold dưới quyền chỉ huy của tướng Dempsey, tư lệnh Tập đoàn quân số 2 Anh quốc trong khi các sư đoàn 1 và sư đoàn 4 của Mỹ thì đổ bộ lên các bãi Omaha, Utah thuộc quyền chỉ huy của tướng Bradley, tư lệnh Tập đoàn quân số 1 Hoa Kỳ. 4000 tấn bom đã được trút xuống các tuyến phòng thủ của quân Đức. Bộ chỉ huy ném bom chiến lược (Bomber Command) của không quân Mỹ, tạm ngưng đánh bom các thành phố lớn của Đức và chuyển sang chiến dịch Overlord. 3.500 pháo đài bay của Bomber Command sẽ rải thảm bom ngăn cản đường tiến lui và đường tiếp viện của quân Đức.

Cùng ngày hôm đó, các sư đoàn nhảy dù của quân Đồng minh cũng đổ bộ lên Normandie. Nếu như lính nhảy dù Anh thành công trong việc chiếm các cây cầu trên sông Ornevùng Troarn thì sư đoàn 101 của Mỹ phải chịu tổn thất nặng nề khi đổ bộ lên đầm lầy bãi Utah. Sư đoàn không kị 802 của Mỹ cũng nguy khốn không kém. 822 vận tải cơ quân sự (18 lính dù/1 chiếc) để đưa được các sư đoàn không kị Mỹ Anh đến trận địa. Những phi cơ này bay ở vận tốc 200 km/giờ và độ cao 320 mét. Mỗi lính dù phải mang 1 trọng lượng gấp đôi cơ thể. Mỗi máy bay chất đầy đạn pháo 75 li, đạn cối 60 li, đạn bazooka. 500 vận tải cơ này cất cánh từ nhiều sân bay khác nhau của miền nam nước Anh vào đêm 5 tháng 6 và bay ở đội hình tam giác 9 chiếc một, số phi cơ này dự định tiến hành thả dù từ 1 đến 2 giờ sáng ngày 6 tháng 6. Nhưng do mây mù ập đến bất chợt nên đội hình bay bị xáo trộn, nhiều phi cơ bay chệch hướng và thả dù rất thấp gây tử vong cho lính dù rất nhiều ở Cotentin và các vùng thung lũng ngập nước DouveMerderet. Chỉ có 2 trong số 6 trung đoàn nhảy dù xuống vùng tương đối thuận lợi nên kế hoạch nhảy dù của tấn công bất ngờ quân Đức đã không được kết quả như mong muốn.

Nếu như việc nhảy dù không mấy thành công thì việc đổ bộ tại 4 trong 5 bãi tiến hành tương đối khá tốt. Quân Đức hoàn toàn bất ngờ về việc quân Đồng minh đổ bộ lúc nửa triều nên không thực hiện được chiến thuật tác xạ đã bàn giao trước đó. Quân Đức phải mất một thời gian để chỉnh lại góc tác xạ của đại liên, cối, pháo tạo điều kiện cho quân Đồng minh tìm được chỗ ẩn náu để mở cuộc tiến công. Việc đánh bom chuẩn bị dọn đường cho quân đổ bộ với việc thả hơn 5000 tấn bom từ 1036 phóng pháo cơ Mỹ tuy có hiệu quả nhưng lại không dứt điểm được các công sự bằng bêtong của quân Đức. Ngược lại ca nông bắn đi từ các tàu chiến phe Đồng minh lại đạt hiệu quả rất cao. Các thiết giáp hạm Nelson, Ramillies, Roberts, Erebus liên tục nã đại pháo 406 mm và 380 mm chính xác vào phòng tuyến đối phương chẳng hạn như các khẩu pháo của Đức đặt tại Houlgate có khả năng bắn trả vào cuộc đổ bộ của quân Anh. Nhưng tại mũi Hoc, với những đại pháo với tầm bắn bao trùm cả cửa ngõ sông Douve, trong khu vực đổ bộ của quân Mỹ thì hoàn toàn không hề hấn gì sau những trận mưa bom và hải pháo. Tiểu đoàn 2 biệt động quân Mỹ được lệnh phải hạ các lô cốt và thiệt mất 1135 binh sĩ.

Hoạt động của ba sư đoàn dù, sư đoàn 6 không kị Anh, sư đoàn 82 và sư đoàn 101 không kị Mỹ - cũng đã phần nào tạo thuận lợi cho 4 sư đoàn bộ binh Mỹ tại các đụn cát giữa VarevilleMadeleine, phía nam Cotentin. Các đơn vị đã có thể tiến dọc theo những lộ trình đã được vạch sẵn và giải toả mọi mìn bẫy. Các đoàn quân này ngay trong chiều ngày 6 tháng 6 năm 1944 đã đến được khu vực làng Sainte-Mere-Eglise mà mới sáng hôm đó là điểm nhảy dù của sư đoàn không kị 82 của Mỹ. Trong lúc đó, quân Đức chuẩn bị cho 1 cuộc phản công do đó quân Mỹ đổ bộ lên bãi Omaha đã gặp phải sự kháng cự mãnh liệt của quân Đức. Những tràng đại liên và pháo của sư đoàn bộ binh 352 của Đức khiến quân Mỹ gặp rất nhiều tổn thất trước khi đến được Isigny ở phía Tây và liên lạc với quân Anh ở hướng Đông. Cơn tắm máu ở bãi Omaha không chỉ do sức kháng cự của quân Đức mà còn do sai lầm của quân Đồng Minh khi không sử dụng các chiến xa vô hiệu hóa các công sự phòng thủ trên bãi. Ngược lại, quân Anh và Canada lại sử dụng triệt để các chiến xa phá mìn trong khu vực bãi Goldbãi Juno. Quân Canada nhanh chóng giải phóng Bayeux và mãi đến chiều tối Đức mới phản công lần nữa bằng việc đưa sư đoàn thiết xa Panzer 21 ra trận. Đến chiều ngày 8 tháng 6 thì đầu cầu đổ bộ đã hình thành rõ ràng và vững chắc, quân Đồng minh đã bắt liên lạc được với nhau giữa năm bãi đổ bộ, chiếm đóng 56 km bờ biển với chiều sâu từ 8 đến 16 km. Chiến dịch Overlord xem như thành công và quân Đức quá bất ngờ nên trở tay không kịp. Gần 1 ngày sau, quân Đức mới tổ chức phòng ngự và chuyển quân tiếp viện đến gần bờ biển với hi vọng đánh bật quân Đồng Minh ra khỏi bờ biển. Nhưng quân Đức phải xung trận trong điều kiện hoàn toàn bất lợi: không quân Đồng minh đã kiểm soát toàn bộ bầu trời, quân Đức phải sử dụng địa hình Normandie để tổ chức phòng ngự. Trận chiến Normandie phải tiếp tục kéo dài vì trong suốt tháng 6 quân Đồng minh chỉ lo củng cố đầu cầu đổ bộ hơn là tiếp tục tấn công.

Với bàn đạp vững chắc tại Normandie, chiến dịch của quân Đồng minh Mỹ - Pháp - Canada đã đại thắng. Phe Đồng minh hứng chịu ít tổn thất hơn dự đoán. Trong khi sức kháng cự của quân Đức cũng yếu ớt hơn dự đoán, quân Đồng minh đã tỏ ra nhanh chân hơn quân Đức trong việc bố trận.[12] Dẫu sao đi chăng nữa, tổn hại của quân Đồng Minh trong ngày đầu rất nặng nề, trong đó có 1074 binh sĩ Canada bị thương. Nhưng, thắng lợi quyết định của họ đã góp phần đánh đổ hoàn toàn Nhà nước phát xít Đức.[1]

Giai đoạn 2 của cuộc chiến

Ngày 27 tháng 6 1944 mở đầu giai đoạn 2 của trận chiến Normandie, sau khi quân Đồng minh chiếm được cảng Cherbourg dù quân Đức đã gài mìn rất kĩ khu vực này. Cho đến ngày 25 tháng 7 1944 lực lượng Đồng minh ngày càng đông và mạnh nhưng đều bị cầm chân trong vùng đầm lầy tại Normandie. Tuy nhiên không quân Đồng minh đã hoàn toàn làm chủ bầu trời với 12000 phi vụ so với 319 phi vụ của quân Đức. Quân Đức cũng đã chỉnh đốn lại hàng ngũ và tinh thần chiến đấu: trong đêm 6 và 7 tháng 6, 12 sư đoàn Panzer SS đã lên vị trí chiến đấu cạnh sư đoàn 21 bộ binh. Pháo binh Đồng minh tiến hành mưa đại pháo và tiêu diệt được 31 xe tăng, chặn đứng cuộc tiếp quân của quân Đức. Nhưng quân tiếp viện của Đức tiếp tục được tung ra do tướng Bayerlein chỉ huy sư đoàn Panzer Lehr tại khu vực quân Anh-Canada ở Caen. Sư đoàn 2 bọc thép SS Das Reich rời Toulouse đến Normandie tham chiến cùng với sư đoàn 17 Panzer ở phía nam sông Loire, sư đoàn 77 bộ binh ở Saint Malo và sư đoàn 3 dù tại Brest. Về phía tướng Erwin Rommel thì quyết định hành quân chiếm lại Caen khi tung ra các sư đoàn 21, sư đoàn 112 và sư đoàn Panzer Lehr và ngày 8/6. Nhưng nhờ máy giải mã Ultra, quân Đồng minh biết được ý đồ của quân Đức và đưa máy bay đến oanh tạc chặn đường hành quân của chúng. 300 xe tăng của sư đoàn 7 thiết kị Anh, từng tham chiến tại Bắc Phi, được điều về cho tướng Anh Montgomery. Cùng với số tăng của sư đoàn 51 Anh, sư đoàn 7 thiết kị Anh có trách nhiệm đập tan kế hoạch phản công của quân Đức. Nhiều trận đánh tăng đã diễn ra vô cùng ác liệt giữa xe tăng Tiger, Panther của Đức và Sherman của Anh.

Lợi thế đã nghiêng dần về cho phe Đồng Minh trong tháng 7 năm 1944.[12]

Quân Mỹ tổng tấn công

Các tướng Mỹ chỉ huy việc đổ bộ lên bãi Omaha, tướng Omar Bradley là người thứ hai từ trái sang.

Dù số quân được đưa vào tác chiến tại khu vực Caen khá đông và đều có kinh nghiệm chiến trường như sư đoàn 11, sư đoàn 43 và sư đoàn 15 Scotland, cộng chung là 60.000 người và 600 chiến xa nhưng kế hoạch Epsom của tướng Montgomery tung ra ngày 22 tháng 6 đã thất bại vì quân Đức núp trong các giao thông hào đào liên tục sử dụng đại liênPanzerfaust và những thứ vũ khí này thể hiện tính hiệu quả rất cao. Quân Scotland thiệt hại 2500 người chỉ trong 4 ngày chiến đấu nên tướng Montgomery hủy bỏ kế hoạch Epsom và thay vào đó là cuộc tấn công của quân Mỹ.

Tập đoàn quân số 1 của Mỹ có nhiệm vụ thọc sâu xuống hướng Nam: 4 quân đoàn của tập đoàn quân 1 sẽ trải rộng từ La Haye-du-Puits (quân đoàn 8) và Carentan (quân đoàn 7) đến Caumont-L'Evente (quân đoàn 19 và quân đoàn 5). Quân Đức tại khu vực rộng lớn này gồm quân đoàn 34 của tướng Von Choltitz vừa được bổ sung thêm sư đoàn Das Reich và quân đoàn 2 dù của tướng Meindl. Cả 1 triệu quân Mỹ chỉ có thể tiến từng bước một trước sự kháng cự mãnh liệt của quân Đức. Tướng Mỹ Bradley rất bực tức đã dành 10 ngày để chuẩn bị cho chiến dịch Cobra, chiến dịch mang đến chiến thắng cho quân Mỹ tại khu vực này. Một lần nữa để kìm chân quân Đức tại Caen, tướng Montgomery quyết định tiến hành chiến dịch Goodwood trước chiến dịch Cobra. Trong khi đó tướng Đức Von Kluge, người nắm quyền thay thế tướng Rundstedt đã đưa tướng Eberbach lên làm chỉ huy tập đoàn quân thiết giáp phía tây. Từ Caumont-L'Evente đến cửa ngõ sông Orne, tướng Eberbach nắm trong tay 3 quân đoàn bọc thép thiện chiến và các sư đoàn xuất sắc như 47, 1 và 2 SS. Quân đoàn 86 ở lại trấn giữ mạn đông sông Orne. Ngày 15 tháng 7 năm 1944, chiến dịch Goodwood mở màn với cuộc tấn công của 3 quân đoàn tập trung vào dòng Odon và dựa vào hỏa lực xung kích của 3 sư đoàn thuộc quân đoàn 8. Các sư đoàn Đồng minh thực hiện cuộc tấn công gồm những đơn vị thiện chiến nhất của khinh kị Anh. Thế nhưng nhóm tác chiến của tướng Von Luck, sư đoàn 21 Panzer cũng gây thiệt hại lớn cho quân Anh khi dùng đại bác 88 ly cao xạ bắn trực tiếp. Những chiếc xe tăng Tiger của tiểu đoàn 505 Đức sau khi thoát khỏi trận oanh kích của máy bay Đồng minh đã gây nhiều tổn thất cho sư đoàn tăng Sherman của Anh. Sư đoàn 1 Panzer SS Adolf Hitler cho xung trận thêm 45 chiến xa và đại bác xung kích và tiêu diệt các chiến xa của trung đoàn 3 Anh vào ngày 18 tháng 7. Quân Anh mất 500 chiến xa trên tổng số 1000 chiếc tham chiến vào chiến dịch. Tuy nhiên kế hoạch này đã phần nào cầm chân và giảm sức kháng cự của quân Đức để cho quân Mỹ có thời gian chuẩn bị và tiến hành chiến dịch quan trọng nhất, chiến dịch Cobra.

Chiến dịch Rắn đuôi chuông

Chiến dịch Rắn đuôi chuông là chiến dịch quyết định. Ngày 28 tháng 7, tướng Patton xua quân chiếm được Coutances rồi lần lượt giải phóng Granville, Avranches. Từ Pontaubault, Patton kiểm soát được Mont-saint-Michel, cửa ngõ của Bretagne. Sau khi chọc thủng thành công phòng tuyến quân Đức, Patton xua quân đánh sâu xuống miền Nam về hướng thành phố Manssông Loire. Gần 1 tháng sau, ngày 21 tháng 8, quân Đồng minh chiếm Falaise, loại được 40 ngàn binh sĩ Đức ra khỏi vòng chiến, thế nhưng 5 vạn quân Đức đã trốn thoát được.[10] Dù sao đi chăng nữa, trận Falaise cũng là một thất bại nặng nề và choáng váng của người Đức[2]. Thắng lợi của Chiến dịch Normandie đã chứng tỏ tiềm lực của Quân đội Hoa Kỳ.[24] Mặc dầu thảm bại này vẫn chưa phải là thất bại to lớn nhất của quân lực Đức trong cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai,[18] đây vẫn được xem là thắng lợi lớn nhất của quân Đồng Minh khi ấy[25]Hitler xem như mất quyền kiểm soát lãnh thổ Pháp vì không lâu sau đó quân Đồng minh tiếp tục thành công trong 1 cuộc đổ bộ khác tại Provence.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Trận_Normandie http://spartacus-educational.com/RUSsecond.htm http://www.history.army.mil/books/wwii/100-11/100-... http://www.history.army.mil/books/wwii/7-4/7-4_Con... http://www.history.army.mil/books/wwii/utah/utah.h... http://news.bbc.co.uk/2/hi/europe/4508901.stm http://books.google.com.vn/books?ei=F0J0T-m7F4OdiA... http://books.google.com.vn/books?hl=vi&id=BaVozO5R... http://books.google.com.vn/books?id=07yL7LtKQIUC&p... http://books.google.com.vn/books?id=Y70C1CkUw7AC&p... http://books.google.com.vn/books?id=c9UiDNK1X-4C&p...